Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn (BPNC) trong tố tụng hình sự (TTHS).Hiện nay Luật TTHS chưa có khái niệm đầy đủ về Biện pháp tạm giam (BPTG), tuy nhiên có thể định nghĩa về BPTG như sau: Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất trong TTHS do người có thẩm quyền ở cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS), Tòa án áp dụng,hạn chế tự do đối với bị can, bị cáo trong thời gian nhất định khi có căn cứ cho rằng người đó có thể tiếp tục phạm tội, có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nhằm ngăn chặn việc người đó tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.
Đào Thị Thu Hồng
Trưởng phòng ANCTNB CAT Bắc Kạn
BPTG được quy định tại Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, đây là BPNC nghiêm khắc nhất trong TTHS, khi áp dụng BPNC này, người bị tạm giam bị cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất định, hạn chế một số quyền con người, quyền công dân như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do thân thể... Đây là BPNC có ý nghĩa rất lớn trong đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, thể hiện sự kiên quyết của Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm quyền con người, quyền công dân của những người lương thiện không bị xâm hại. BPTG cũng là biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên khi áp dụng biện pháp này, bị can, bị cáo bị cách ly ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định, đụng chạm đến rất nhiều quyền con người, quyền công dân của họ. Vì vậy khi quyết định áp dụng BPNC, người có thẩm quyền cần trên tinh thần nhân đạo XHCN để lựa chọn BPNC phù hợp, một mặt bảo đảm được mục đích ngăn chặn, nhưng đồng thời hạn chế thấp nhất việc hạn chế quyền con người, quyền công dân của người bị áp dụng BPNC, luôn xác định đây là BPNC, không được áp dụng như một biện pháp điều tra hay biện pháp trừng phạt. Đặc biệt, đối với BPTG, là biện pháp ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân, đòi hỏi khi áp dụng cần hết sức thận trọng, đúng mục đích và có căn cứ pháp luật.
Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội trên địa bàn cả nước, kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Kạn có những khởi sắc nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển kinh tế xã hội thì vấn đề an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn có những diễn biến rất phức tạp. Số vụ án hình sự trên địa bàn xảy ra nhiều, diễn biến phức tạp.Theo báo cáo tổng kết công tác của VKSND tỉnh Bắc Kạn và Công an tỉnh Bắc Kạn, từ năm 2014 đến năm 2018, cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp tỉnh Bắc Kạn đã thụ lý 1.842 vụ/ 2.536 bị can, tội phạm xảy ra chủ yếu là về ma túy, tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội và tội phạm xâm phạm sở hữu, tội phạm về môi trường. Các vụ án xảy ra trên địa bàn đều thuộc thẩm quyền thụ lý, điều tra của cơ quan CSĐT các cấp tỉnh Bắc Kạn. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc áp dụng BPNC đóng vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt là BPTG. Trong những chủ thể có thẩm quyền, CQĐT là chủ thể chủ yếu áp dụng.
Nghiên cứu về thực tiễn áp dụng BPTG của cơ quan CSĐT tại tỉnh Bắc Kạn trong những năm gần đây cho thấy, việc áp dụng biện pháp này đã đạt được những kết quả tích cực, cụ thể là:
Thứ nhất: BPTG được CQĐT áp dụng ngày càng chặt chẽ hơn, góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Theo số liệu báo cáo của Công an tỉnh Bắc Kạn thì BPTG được cơ quan CSĐT áp dụng trung bình cả giai đoạn (từ năm 2014 đến năm 2018) chiếm 66,75%. Đặc biệt năm 2018 là năm đầu tiên triển khai thi hành BLTTHS năm 2015, số bị can bị tạm giam giảm rõ rệt so với các năm trước, giảm 36,83% so với năm 2017 (áp dụng theo quy định của BLTTHS năm 2003).Điều này chứng tỏ BPTG được cơ quan CSĐT tại tỉnh Bắc Kạn áp dụng ngày càng chặt chẽ, hạn chế được tình trạng lạm dụng áp dụng BPTG một cách tùy tiện.
Thứ hai,Việc áp dụng BPTG của cơ quan CSĐT tại tỉnh Bắc Kạn cơ bản đảm bảo có căn cứ theo quy định của pháp luật, được VKSND phê chuẩn.
Khảo sát tình hình tạm giam trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thấy rằng hầu hết các trường hợp bị can có lệnh, quyết định tạm giam của CQĐT là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, và đều chịu sự kiểm tra, kiểm sát của VKSND cùng cấp một cách chặt chẽ. Tỷ lệ trung bình số lệnh, quyết định tạm giam được VKSND phê chuẩn trên tổng số bị can có lệnh, quyết định tạm giam của CQĐT trong 5 năm (từ năm 2014 đến năm 2018) tương đối cao (99,76%). Nghĩa là, các trường hợp bị can có lệnh, quyết định tạm giam không được VKS phê chuẩn chiếm tỷ lệ rất thấp (0,24%).
Thứ ba, việc áp dụng BPTG của Cơ quan CSĐT tại tỉnh Bắc Kạn cơ bản đảm bảo đúng thời hạn theo quy định của pháp luật, không xảy ra trường hợp nào tạm giam quá thời hạn luật định.
Qua nghiên cứu các báo cáo tổng kết công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của VKSND tỉnh Bắc Kạn cho thấy, từ năm 2014 đến năm 2018, trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn không có trường hợp nào tạm giam quá thời hạn luật định. Điều đó cho thấy sự nỗ lực rất lớn của các cơ quan THTT, người THTT, trong đó có cơ quan CSĐT, các Điều tra viên của cơ quan CSĐT các cấp tỉnh Bắc Kạn trong việc tuân thủ các quy định của pháp luật TTHS về BPTG.
Thứ tư, cơ quan CSĐT tại tỉnh Bắc Kạn đã kịp thời thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam khi xét thấy không cần thiết áp dụng BPTG.
Tạm giam là một BPNC nghiêm khắc nhất, vì vậy cơ quan CSĐT đã luôn thận trọng khi ra lệnh, quyết định tạm giam, hạn chế tối đa việc áp dụng biện pháp này trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án hình sự, tránh được các trường hợp oan sai, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Cụ thể, cơ quan CSĐT đã kịp thời thay đổi BPTG, hủy bỏ BPTG, trả tự do cho bị can, qua đó góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giam, điều đó thể hiện thông qua số liệu sau: Số bị can bị tạm giam, sau đó được hủy bỏ BPTG chiếm tỷ lệ rất nhỏ (trung bình 5 năm là 0,81%); số trường hợp bị tạm giam sau đó được thay đổi bằng BPNC ít nghiêm khắc hơn chiếm tỷ lệ nhỏ (trung bình cả giai đoạn là 17,94%). Việc kịp thời thay đổi hoặc hủy bỏ BPTG đã hạn chế được tình trạng xâm phạm đến các quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giam khi bị áp dụng BPNC, góp phần bảo đảm, bảo vệ quyền nhân thân, quyền tự do Hiến định của bị can.
Thứ năm, việc áp dụng BPTG của cơ quan CSĐT tại tỉnh Bắc Kạn cơ bản đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Qua nghiên cứu số liệu về tình hình tạm giam đã giải quyết, thấy rằng các trường hợp bị áp dụng BPTG cơ bản đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 không có trường hợp nào bị tạm giam, sau đó được trả tự do do vụ án có quyết định đình chỉ; số bị can bị tam giam sau đó được hội đồng xét xử trả tự do chiếm tỷ lệ nhỏ (trung bình cả giai đoạn là 4,51%). Bên cạnh đó, số bị can bị tạm giam được giải quyết bằng án có hiệu lực pháp luật chuyển trại giam trên tổng số bị can bị tạm giam đã giải quyết chiếm tỷ lệ cao và tăng dần theo các năm (trung bình cả giai đoạn là 73,18%), điều đó chứng tỏ các cơ quan THTT tỉnh Bắc Kạn, trong đó có cơ quan CSĐT đã thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật TTHS về việc áp dụng BPTG, đảm bảo đúng người, đúng tội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc áp dụng BPTG của cơ quan CSĐT tại tỉnh Bắc Kạn vẫn còn những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc áp dụng BPTG còn khá phổ biến.
Theo số liệu thống kê của VKSND tỉnh Bắc Kạn, trong cả giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018, tỷ lệ các trường hợp bị áp dụng BPTG trên tổng số bị can thụ lý còn chiếm tỷ lệ cao (trung bình cả giai đoạn là 66,75%), điều đó cho thấy BPTG vẫn là BPNC được cơ quan CSĐT áp dụng một cách phổ biến, chiếm đa số.
Thứ hai, việc áp dụng BPTG của cơ quan CSĐT tại tỉnh Bắc Kạn có trường hợp không có căn cứ hoặc còn lạm dụng áp dụng BPTG để phục vụ cho công tác điều tra, không được VKSND phê chuẩn.
Qua khảo sát trong cả giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 vẫn còn 4 trường hợp bị can CQĐT ra lệnh tạm giam nhưng không được VKSND phê chuẩn, tuy số liệu trên chiếm tỷ lệ rất nhỏ (0,23%) nhưng cho thấy việc áp dụng BPTG của cơ quan CSĐT tại tỉnh Bắc Kạn vẫn có trường hợp không đảm bảo căn cứ theo luật định nên không được VKSND phê chuẩn.
Thứ ba, nhiều lệnh, quyết định tạm giam của cơ quan CSĐT chưa nêu được căn cứ cụ thể.
Qua khảo sát thấy rằng đại đa số các cơ quan điều tra khi đề nghị VKS phê chuẩn lệnh tạm giam đều ghi căn cứ chung chung là: “căn cứ vào hành vi phạm tội”, “căn cứ vào các điều luật của BLTTHS”; “để bảo đảm công tác điều tra, xử lý”; hoặc “nhận thấy cần thiết phải tạm giam bị can, không để họ bỏ trốn, gây cản trở khó khăn cho quá trình điều tra hoặc tiếp tục phạmtội…”.
Thứ tư, vẫn còn tình trạng vi phạm một số thủ tục khác khi áp dụng BPTG
Nghiên cứu báo cáo kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của VKSND tỉnh Bắc Kạn thấy rằng, việc tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục pháp luật trong tạm giam của cơ quan CSĐT tại tỉnh Bắc Kạn có nơi chưa chặt chẽ, chưa theo đúng quy trình thủ tục do pháp luật TTHS quy định. Cụ thể như: Đối với Lệnh tạm giam, một số trường hợp lệnh tạm giam với thời hạn tạm giam không trừ thời hạn tạm giữ; không có chữ ký của người bị tạm giam; có nơi ghi và tính thời hạn tạm giam chưa chính xác. Một số ít trường hợp cán bộ thi hành lệnh tạm giam không tiến hành kiểm tra ngay căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cư trú.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do: từ sự vướng mắc, bất cập trong quy định của BLTTHS (như Vướng mắc trong việc áp dụng BPNC tạm giam đối với các trường hợp đặc biệt không được miễn trừ chính sách ưu đãi khi áp dụng BPNC này; Bất cập trong quy định về trường hợp, căn cứ áp dụng BPTG; Vướng mắc trong việc áp dụng BPTG theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 119 BLTTHS; Vướng mắc trong quy định về trách nhiệm đối với lệnh tạm giam); Nguyên nhân từ đội ngũ cán bộ điều tra, điều tra viên các cấp(nhận thức còn chủ quan, ý thức trách nhiệm cũng như trình độ năng lực của một số cán bộ điều tra, điều tra viên còn hạn chế…);Nguyên nhân từ công tác quản lý, chỉ đạo điều hành (Lãnh đạo nhiều đơn vị chưa thực sự quan tâm đến công tác tạm giam, bố trí cán bộ vừa thiếu về số lượng, yếu về chất lượng; Sự phối hợp công tác giữa các cơ quan THTT, cơ quan quản lý giam giữ, cơ quan thi hành án hình sự chưa chặt chẽ, thường xuyên;Công tác chỉ đạo của Thủ trưởng các CQĐT chưa kịp thời và chưa sâu sát; Công tác kiểm tra, hướng dẫn, giám sát pháp luật trong lĩnh vực tạm giam chưa được tiến hành thường xuyên và đều khắp nên chưa phát hiện và có biện pháp khắc phục kịp thời những biểu hiện vi phạm; Việc phối hợp giữa VKSND với CQĐT và các cơ quan hữu quan trong việc kiểm sát, thanh tra việc tuân thủ pháp luật, kiểm sát giam giữ và quản lý người bị tạm giam vẫn còn những thiếusót, chưa thường xuyên); Một số nguyên nhân khác (Các điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện, trang bị, chế độ điều kiện làm việc của các cơ quan CSĐT và đội ngũ điều tra viên còn chưa được ưu tiên đầy đủ làm hạn chế năng lực thực thi nhiệm vụ theo TTHS, dẫn đến hiệu quả áp dụng BPTG trên thực tế còn chưa cao; kinh phí chi cho công tác đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, trau dồi đạo đức của các chức danh tư pháp trong lĩnh vực tạm giam chưa được đầu tư thích đáng. Chưa có chế độ đãi ngộ cán bộ cũng như đề nghị tăng thẩm quyền tố tụng cho điều tra viên…)
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng BPTG trong TTHS của cơ quan CSĐT các cấp tỉnh Bắc Kạn, góp phần đảm bảo tôn trọng các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời bảo đảm hoạt động của các cơ quan THTT trong giải quyết các vụ án hình sự được chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội,tác giả xin đưa ra một số giải pháp như sau:
Một là,đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam
Chế định tạm giam được quy định trong BLTTHS năm 2003, nay quy định trong BLTTHS năm 2015 đã tạo ra một hành lang pháp lý để áp dụng BPTG cho mọi hành vi, mọi hoạt động của các chủ thể trong xã hội. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng có những tác động tích cực, mang lại hiệu quả trong hoạt động tố tụng nhưng BPTG vẫn tồn tại những điểm bất cập. Do vậy, việc hoàn thiện chế định tạm giam theo tư tưởng cải cách tư pháp phù hợp trong giai đoạn phát triển hiện nay là một đòi hỏi tất yếu.
Thứ nhất: Cần hoàn thiện quy định của BLTTHS về căn cứ áp dụng BPTG.
BLTTHS hiện hành vẫn còn sử dụng kết quả phân loại tội phạm như cơ sở độc lập để xây dựng căn cứ áp dụng BPTG mà không xuất phát từ mục đích áp dụng dẫn đến tình trạng lạm dụng biện pháp này trên thực tế. Khoản 1 Điều 119 BLTTHS năm 2015 quy định: Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. Như vậy, khi bị can, bị cáo phạm tội gây nguy hại rất lớn hoặc đặc biệt lớn cho xã hội thì có thể áp dụng biện pháp này. Có nghĩa là, biện pháp này có thể được áp dụng trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà không cần chứng minh khả năng trốn tránh, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án cũng như khả năng tiếp tục phạm tội của họ. Điều này không phù hợp với bản chất và căn cứ áp dụng BPNC chung được quy định tại Điều 109 BLTTHS năm 2015. Tạm giam là BPNC chứ không phải là trách nhiệm hình sự; cho nên, không thể lấy mức độ nguy hiểm của tội phạm làm căn cứ duy nhất để áp dụng tạm giam. Hơn nữa, khả năng phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội có thể là một trong những vấn đề được người phạm tội cân nhắc khi quyết định bỏ trốn hay không bỏ trốn, nhưng không thể suy diễn rằng mọi bị can, bị cáo đều lựa chọn biện pháp bỏ trốn khi biết mình có thể phải chịu mức hình phạt cao. Không ít bị can, bị cáo khi bị phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì ăn năn hối hận, thành khẩn khai báo để mong được hưởng chính sách khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt theo quy định của pháp luật. Có những trường hợp tuy phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng là lỗi vô ý, do nhất thời không làm chủ được mình... Đó là chưa kể có những vụ án, ban đầu bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử với tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, nhưng về sau được thay đổi với tội nhẹ hơn. Trong trường hợp này, việc áp dụng BPNC với họ liệu có thiếu căn cứ? Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi cao hay thấp, mức hình phạt mà bị can, bị cáo có thể phải chịu là vấn đề cần làm rõ, là yêu cầu cần đạt tới trong các giai đoạn hoạt động tố tụng, chứ không thể là căn cứ để áp dụng BPNC. Căn cứ áp dụng BPNC phải là căn cứ có thật, dự báo khả năng thực tế có thể xảy ra việc phạm tội tiếp, bỏ trốn hoặc cản trở hoạt động tố tụng chứ không thể là căn cứ mang tính suy diễn từ tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi có dấu hiệu phạm tội mà họ bị cho là đã thực hiện. Việc suy diễn tùy tiện trong lập pháp tạo nên các căn cứ pháp lý cho việc xâm phạm quyền tự do cá nhân, quyền cơ bản của công dân.
Vì vậy, cần kết hợp giữa hai yếu tố là hành vi phạm tội do lỗi cố ý hay vô ý và thái độ hợp tác, hành vi của bị can sau khi phạm tội để làm căn cứ tạm giam đối với bị can, bị cáo. Đồng thời không sử dụng kết quả phân loại tội phạm như cơ sở độc lập để xây dựng căn cứ áp dụng BPTG, cần coi khả năng bị can, bị cáo có thể cản trở, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc có thể tiếp tục phạm tội là căn cứ chủ yếu để xem xét, quyết định BPTG.
Thứ hai, BLTTHS nên quy định bổ sung về trách nhiệm đối với lệnh, quyết định tạm giam.
Về trách nhiệm của người đề xuất, người ra lệnh và người phê chuẩn lệnh tạm giam, hiện nay BLTTHS chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Vì vậy theo tác giả cần có quy định bổ sung trong BLTTHS về trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền THTT đối với việc áp dụng BPNC nói chung, BPTG nói riêng. Theo hướng, trách nhiệm của người đề xuất, người ra lệnh và người phê chuẩn cần phải có quy định rõ ràng và mức độ sai phạm, trách nhiệm của từng người là như nhau. Nếu tạm giam trái pháp luật thì Điều tra viên phải chịu trách nhiệm (người đề xuất), Thủ trưởng CQĐT phải chịu trách nhiệm của người ra lệnh, còn tạm giam sau đó lại được VKS phê chuẩn thì người đã đề xuất phê chuẩn phải chịu trách nhiệm của người đề xuất, người đã phê chuẩn phải chịu trách nhiệm của người đã phê chuẩn. Như vậy sẽ nêu cao được tinh thần trách nhiệm của điều tra viên, Thủ trưởng CQĐT và VKS trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình.
Thứ ba: BLTTHS nên bổ sung quy định về vấn đề thời hạn phê chuẩn lệnh tạm giam của VKS.
Hiện nay tất cả các vụ án, thời hạn để VKS xem xét, phê chuẩn hay không phê chuẩn lệnh tạm giam theo yêu cầu của CQĐT là 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam. Tuy nhiên qua nghiên cứu tác giả thấy rằng, đối với mỗi vụ án khác nhau thì thời hạn chung theo quy định như vậy là chưa thật sự phù hợp. Thực tế, VKS xét phê chuẩn lệnh tạm giam nhằm kiểm tra tính chính xác trong việc ra lệnh, quyết định tạm giam của CQĐT, hạn chế tình trạng tạm giam oan, sai, không đúng đối tượng, căn cứ, thủ tục, thẩm quyền. Các vụ án càng có tính chất phức tạp thì VKS càng cần phải có thời gian để nghiên cứu và xem xét hồ sơ. Trong những trường hợp do vụ án quá phức tạp, nhiều tình tiết, VKS không thể kịp thời đưa ra quyết định trong vòng 03 ngày, điều này dễ dẫn đến tình trạng tạm giam trái pháp luật hoặc bỏ sót bị can, gây những khó khăn nhất định cho quá trình điều tra vụ án của CQĐT.
Đồng thời cũng theo quy định của BLTTHS, trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ BPTG thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, CQĐT phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn tạm giam. Như vậy chỉ những vụ án phức tạp, nhiều tình tiết CQĐT mới có thể yêu cầu VKS gia hạn tạm giam. Tuy nhiên BLTTHS lại chưa có quy định nào về thời hạn mà VKS xem xét để giải quyết yêu cầu gia hạn của CQĐT.Điều này làm cho CQĐT thiếu chủ động trong việc áp dụng BPTG và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tạm giam quá hạn của CQĐT.
Vì vậy theo tác giả nên quy định bổ sung các mức thời gian phê chuẩn lệnh tạm giam của VKS theo từng loại vụ án đơn giản hay phức tạp, kể từ khi nhận được công văn đề nghị phê chuẩn và tài liệu của vụ án. Theo hướng, trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trường hợp, hồ sơ vụ án có tính chất phức tạp, cần bổ sung thêm tài liệu chứng cứ thì thời hạn xét phê chuẩn của VKS có thể kéo dài thêm nhưng không quá 06 ngày. Mặc dù quy định này có thể làm tăng thêm thời gian giải quyết vụ án nhưng để đảm bảo tính chính xác trong việc áp dụng BPTG cũng như bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về tự do của công dân thì nên ghi nhận quy định này trong BLTTHS.
Ngoài ra, Điều 173 BLTTHS năm 2015 nên quy định bổ sung về thời hạn để VKS xem xét phê chuẩn việc đề nghị gia hạn tạm giam của CQĐT. Những vụ án phức tạp, nhiều tình tiết sẽ được VKS xem xét việc gia hạn tạm giam. Tuy nhiên, tạm giam sẽ hạn chế quyền tự do cá nhân của bị can trong một thời gian nhất định, vì vậy quy định về thời hạn xem xét phê chuẩn việc gia hạn tạm giam của VKS đối với đề nghị của CQĐT sẽ giúp CQĐT tránh được việc tạm giam quá hạn, vừa đảm bảo được quyền nhân thân của bị can.
Hai là; Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam của cơ quan Cảnh sát điều tra tỉnh Bắc Kạn
Thứ nhất, Nâng cao nhận thức, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn cho đội ngũ lãnh đạo, cán bộ cơ quan điều tra các cấp.
Có thể thấy rằng, hoạt động chủ yếu của CQĐT là hoạt động áp dụng và thi hành pháp luật, vì vậy để hoạt động này được thực hiện một cách có hiệu quả thì cần phải nâng cao nhận thức, phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ lãnh đạo và cán bộ các CQĐT.Để có đội ngũ lãnh đạo, cán bộ điều tra, điều tra viên có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng vững vàng, có năng lực chuyên môn nghiệp vụ giỏi thì phải thực hiện tốt các công tác sau:
- Trước hết cần chấp hành nghiêm túc quy định về tiêu chuẩn đối với các chức danh Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan CSĐT, điều tra viên. Công an tỉnh Bắc Kạn cần xây dựng quy chế tuyển chọn, đào tạo và sử dụng cán bộ điều tra, điều tra viên đảm bảo đúng các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, phải có kế hoạch, hình thức và biện pháp đào tạo, bồi dưỡng toàn diện đội ngũ cán bộ; có quy hoạch khoa học, hợp lý về sử dụng đội ngũ cán bộ. Điều tra viên phải là những cán bộ chiến sĩ có năng lực, phẩm chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ từ Đại học trở lên, có kinh nghiệm thực tiễn. Trước mắt cần tiếp tục duy trì thực hiện việc thi tuyển điều tra viên để tuyển chọn được những cán bộ điều tra đảm bảo được các điều kiện tiêu chuẩn theo quy định.
- Thứ hai, Bộ Công an và Công an tỉnh Bắc Kạn cần phải quan tâm chú trọng mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu nghiệp vụ cho điều tra viên và cán bộ làm công tác điều tra. Tiến hành đào tạo, bồi dưỡng về mọi mặt để nâng cao ý thức pháp luật và trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ điều tra, điều tra viên, giúp họ nắm vững các văn bản pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật, trong đó có quy định của pháp luật về BPTG.
- Lãnh đạo, cán bộ CQĐT hai cấp ở Bắc Kạn nói chung, điều tra viên ở Bắc Kạn nói riêng cần phải thường xuyên tự học tập, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, ý thức chính trị, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật, nắm chắc các quy định của pháp luật về BPTG, hiểu rõ tính chất, mục đích của biện pháp này để áp dụng BPTG đảm bảo đúng trường hợp, căn cứ, thủ tục…theo quy định.
Thứ hai: Tăng cường các điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí, chế độ đãi ngộ cho các cơ quan điều tra và đội ngũ cán bộ điều tra.
Công an tỉnh Bắc Kạn cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trụ sở làm việc, máy móc trang thiết bị kỹ thuật, kinh phí phục vụ cho hoạt động của các CQĐT, nhằm đảm bảo cho các hoạt động của CQĐT được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng hơn. Không ngừng ứng dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến nhằm nắm bắt thông tin nhanh chóng, xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội. Bên cạnh đó, cần đầu tư xây dựng cơ sở vật chất thiết yếu trong nhà tạm giữ, trại tạm giam, đảm bảo các yêu cầu, quy mô của việc tạm giam, tạm giữ, hạn chế tình trạng bị can bị tạm giam trốn hay chết, không được hưởng đầy đủ, cơ bản các quyền, lợi ích hợp pháp cũng như chế độ chính sách mà pháp luật đã quy định.
Lĩnh vực hoạt động công tác của điều tra viên, cán bộ điều tra có tính đặc thù riêng, vất vả, khó khăn, phức tạp, chịu nhiều áp lực, có khi còn gặp những nguy hiểm cho bản thân và gia đình. Do vậy, bên cạnh việc tăng cường điều kiện, phương tiện cơ sở vật chất, Nhà nước nên có những chính sách, chế độ đãi ngộ tốt hơn đối với các cán bộ THTT, trong đó có điều tra viên và cán bộ điều tra để họ có thể yên tâm, phấn khởi, tập trung trí tuệ thực hiện tốt nhiệm vụ đồng thời thể hiện được tinh thần trách nhiệm cao trong công tác.
Thứ ba,Tăng cường các biện pháp phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật trong việc áp dụng biện pháp tạm giam.
Bên cạnh việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về chế định tạm giam, một vấn đề quan trọng đặt ra trước mắt cũng như về lâu dài là tăng cường các biện pháp để nâng cao trách nhiệm của những người THTT trong việc áp dụng BPTG.Để nâng cao trách nhiệm của họ, đòi hỏi phải tăng cường công tác kiểm tra của Thủ trưởng các đơn vị, của cơ quan quản lý cấp trên đối với cán bộ thuộc quyền và cán bộ cấp dưới. Đặc biệt phải tăng cường cơ chế giám sát, phát huy vai trò của các cơ quan nhà nước, Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận, đại biểu dân cử trong việc giám sát việc áp dụng BPTG của các cơ quan, người THTT, kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật trong việc áp dụng BPTG.
Đồng thời, VKSND các cấp tỉnh Bắc Kạn cần tăng cường hoạt động kiểm sát đối với công tác chấp hành pháp luật về tạm giam, đảm bảo mỗi khi có việc tạm giam thì đều có hoạt động kiểm sát. Qua công tác kiểm sát việc áp dụng BPTG, VKS phát hiện những vi phạm, thiếu sót trong việc áp dụng BPNC nói chung, BPTG nói riêng, từ đó kiến nghị giải pháp khắc phục.Các cơ quan THTT tỉnh Bắc Kạn cần tiếp nhận, xem xét và giải quyết tốt các khiếu nại, tố cáo của các cá nhân, cơ quan, tổ chức về việc áp dụng BPTG, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các tập thể, cá nhân có vi phạm trong việc áp dụng BPTG. Đối với những trường hợp vi phạm, cần xác định rõ trách nhiệm của những người có liên quan để áp dụng các biện pháp xử lý như biện pháp kỷ luật hành chính, bồi thường, truy cứu trách nhiệm hình sự… nhằm nâng cao trách nhiệm của những người có liên quan trong việc áp dụng BPTG.Bên cạnh đó cần tiếp tục duy trì và thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan CSĐTvà VKSND các cấp ở Bắc Kạn trong hoạt động TTHS.
Tạm giam là một chế định quan trọng trong TTHS. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn, tác giả bài viết đưa ra các giải pháp, đây cũng chính là những định hướng quan trọng, cơ bản để cơ quan CSĐT các cấp tỉnh Bắc Kạn tiếp tục kế thừa, phát huy những kết quả đã đạt được, từng bước hạn chế, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc nhằm tiếp tục nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng BPTG trong trong thời gian tới./.
Đ.T.T.H