Người dưới 18 tuổi là nhóm người đang trong quá trình phát triển cả về tâm lý, sinh lý và ý thức, với kinh nghiệm cuộc sống còn ít ỏi, khả năng nhận thức và hiểu biết pháp luật còn có những hạn chế. Người dưới 18 tuổi khó tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia vào một số quan hệ pháp luật nhất định, trong đó có quan hệ pháp luật tố tụng hình sự (TTHS). Do đó, khi tham gia vào hoạt động TTHS với tư cách người bị hại, người dưới 18 tuổi là chủ thể đặc biệt, rất cần những cơ chế đặc thù để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Vì vậy, pháp luật TTHS đã dành những quy định riêng về thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi là bị hại nhằm tránh làm tổn thương, giảm thiểu những hậu quả tiêu cực mà quá trình tố tụng có thể gây ra cho họ, tạo điều kiện để người bị hại là người dưới 18 tuổi có thể nhanh chóng trở lại cuộc sống bình thường sau khi tham gia quá trình TTHS. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHStrong xét xử các vụ án hình sự (VAHS) có bị hại là người dưới 18 tuổi của Tòa án nhân dân (TAND).
1. Đặc điểm người dưới 18 tuổi là người bị hại trong VAHS
Theo khoa học về y học, độ tuổi chưa thành niên là độ tuổi khá nhạy cảm. Vì ở lứa tuổi này, các em chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, do bộ não của các em đang trong quá trình hoàn thiện, cơ thể và tâm sinh lý của các em có những sự thay đổi mạnh mẽ. Chính vì sự chưa hoàn thiện của hệ thống não bộ dẫn đến người dưới 18 tuổi có những sự khác biệt so với người đã thành niên về trạng thái tâm lý, ý thức, như: đặc điểm về thể chất, nhu cầu và nhận thức.
- Đặc điểm về thể chất: Ở người dưới 18 tuổi, sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc. Sự phát triển không cân bằng của hệ tim và mạch, tim phát triển nhanh hơn các mạch máu đã dẫn đến sự thiếu máu trong từng bộ phận trên vỏ não và đôi khi còn làm rối loạn chức năng trong hoạt động của hệ tim mạch, dẫn đến sự rối loạn chức năng trong hoạt động của hệ tim mạch. Do đó, các em thường có cảm giác mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu, dễ bị kích động, nổi nóng. Đồng thời, tuyến nội tiết ở các em hoạt động mạnh gây ra sự mất cân bằng trong hoạt động của hệ thần kinh trung ương, dễ dẫn đến phát sinh những hành vi bất thường, nhiều em đã không làm chủ được bản thân, không kiềm chế được xúc động mạnh nên đã có những hành vi bồng bột, sai lầm.
- Đặc điểm về nhu cầu: Sự phát triển của trẻ em trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, ở từng độ tuổi khác nhau, nhưng tựu chung lại có những nhu cầu cơ bản như: nhu cầu được yêu thương, đồng cảm; nhu cầu an toàn; nhu cầu khẳng định bản thân; nhu cầu giao lưu; nhu cầu tự do, độc lập, thích khám phá. Đối với những trường hợp trẻ em được sống trong môi trường giáo dục tốt, có sự định hướng thì những nhu cầu này được đảm bảo để họ phát triển và hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, đối với những trường hợp không được bảo đảm những nhu cầu trên như: Không nhận được sự yêu thương, đồng cảm của cha mẹ, thầy cô, những việc làm của họ không nhận được sự tôn trọng của những người xung quanh hoặc sống trong gia đình có cha mẹ thường xuyên cãi nhau, gia đình không có cấu trúc hoàn chỉnh hoặc những mối quan hệ, giao lưu của các em không được định hướng, chọn lọc thì nguy cơ bị xâm hại cao hơn bình thường.
- Đặc điểm về nhận thức: Thực tiễn cho thấy, những người dưới 18 tuổi còn rất non nớt về nhân sinh quan nên nhận thức của họ thường một chiều và ở một vài khía cạnh chưa đầy đủ. Do chưa phát triển hoàn thiện về thể lực, trí tuệ, chưa có khả năng nhận thức đầy đủ về những sự vật, hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày. Đồng thời, các em chưa có nhận thức đầy đủ về pháp luật nên trong nhiều trường hợp không biết hành vi của người phạm tội là nguy hiểm cho bản thân và xã hội. Cùng với những nhu cầu của cá nhân, dẫn đến các em thường dễ mắc sai lầm, dễ bị các đối tượng phạm tội lợi dụng để thực hiện hành vi phạm tội.
Từ những sự khác biệt trong trạng trái thể chất, tâm sinh lý và đặc điểm về nhu cầu, nhận thức mà người dưới 18 tuổi trở thành chủ thể đặc biệt trong các mối quan hệ xã hội, đặc biệt trong quan hệ pháp lý.Trong mối quan hệ pháp luật hình sự, người dưới 18 tuổi là người bị hại phải chịu những tác động mạnh mẽ nhất từ hành vi phạm tội, dẫn đến có những đặc điểm tâm sinh lý sau:
Khi bị tội phạm xâm hại, người bị hại thường có trạng thái tâm lý không ổn định, tinh thần hoảng loạn, thậm chí mất khả năng điều khiển hành vi của mình. Đặc biệt, đối với bị hại là người dưới 18 tuổi, những đối tượng còn non nớt về tâm lý, tinh thần, sự ảnh hưởng đến tâm lý càng trở nên sâu sắc hơn. Trong một số vụ án, đặc biệt là án xâm hại tình dục trẻ em, mua bán trẻ em, các em do bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý, lo lắng, sợ hãi khi sự việc xảy ra, không muốn tiết lộ hoặc để cho người khác biết được bí mật đời tư của mình và những hậu quả mà các em đã phải gánh chịu. Thậm chí, trong những vụ án người bị hại chưa thành niên có mối quan hệ với người phạm tội (quan hệ tình cảm, quan hệ huyết thống…) nên có thể từ chối khai báo hoặc che giấu hành vi phạm tội cho người thân. Trong một số trường hợp, do người bị hại chưa thành niên bị đe dọa, cưỡng ép hoặc bị mua chuộc bằng vật chất nên đã không tố giác, không hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT), từ chối khai báo, từ chối giám định gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án. Mặt khác, do ở thời điểm này, tâm lý của các em còn non nớt nên khi bị xâm hại sẽ để lại những hậu quả rất nặng nề, không chỉ gây tổn hại đến danh dự, nhân phẩm thậm chí là tính mạng và sức khỏe của các em, mà còn tác động tiêu cực đến tâm lý, tình cảm, để lại dư chấn mạnh mẽ, ảnh hưởng lớn tới sự phát triển bình thường của các em sau này.
Từ những đặc điểm của bị hại là người dưới 18 tuổi cho thấy, do có sự phát triển chưa hoàn thiện về tâm, sinh lý của lứa tuổi, người dưới 18 tuổicó thái độ, nhận thức chưa hoàn chỉnh trong giao tiếp xã hội, đòi hỏi xã hội phải dành cho họ những đối xử phù hợp với lứa tuổi. Điều này đồng nghĩa với việc cần thiết phải có cơ chế riêng biệt trong TTHS khi xét xử các vụ án có bị hại là người dưới 18 tuổi.
2. Những vấn đề cần lưu ý khi xét xử các VAHS có bị hại là người dưới 18 tuổi của TAND
BLTTHS năm 2015 đã quy định 1 chương riêng (Chương XXVIII) gồm 18 điều, từ Điều 413 đến Điều 430 quy định về “Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi” nhằm giải quyết những VAHS có liên quan đến người tham gia tố tụng là NCTN.
Các cơ quan chức năng đã ban hành 03 Thông tư quy định về vấn đề này, đó là:
- Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định về phòng xử án (sau đây gọi là Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC);
- Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao “Quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa án gia đình và người chưa thành niên”(sau đây gọi là Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC);
- Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội quy định về thủ tục tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi (sau đây gọi là Thông tư liên tịch số 06/2018).
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn nói trên, thì khi tiến hành giải quyết đối với VAHS có người bị hại là người dưới 18 tuổi của TAND cần lưu ý một số nội dung cơ bản như sau:
2.1. Việc phân công người tiến hành tố tụng
Đối với các VAHS có người dưới 18 tuổi là người bị hại, quy định người tiến hành tố tụng (THTT) có những sự khác biệt nhất định so với vụ án không có người dưới 18 tuổi. Việc phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử VAHS có bị hại là người dưới 18 tuổi phải đáp ứng điều kiện của BLTTHS quy định về người THTT các VAHS có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi (Điều 415), phải là “người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, có hiểu biết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi”. Điều này được cụ thể hóa tại Thông tư liên tịch số 06/2018và Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC quy định chi tiết việc xét xử VAHS có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa Gia đình và người chưa thành niên (Tòa GĐ&NCTN) thì Thẩm phán khi được phân công giải quyết vụ án có người dưới 18 tuổi phải đảm bảo có ít nhất một trong các điều kiện sau:
-Có kinh nghiệm xét xử các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi;
-Đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi;
-Đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi.
Ví dụ: “Thẩm phán chuyên trách xét xử các vụ án có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi đã nghỉ hưu; giáo viên đã nghỉ hưu; cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em; cán bộ làm công tác xã hội, cộng tác viên trẻ em; người đã tham gia công tác tại cơ quan, tổ chức liên quan đến hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm và giáo dục người dưới 18 tuổi; người làm công tác bảo vệ trẻ em; đại diện Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội bảo vệ quyền trẻ em, Hội Cựu chiến binh có kinh nghiệm trong quản lý, giáo dục, giúp đỡ người phạm tội và người vi phạm pháp luật là người dưới 18 tuổi” (khoản 3 Điều 2 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC). Cùng với việc phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Tòa án lựa chọn mời Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử giải quyết vụ án. Hội thẩm nhân dân phải là “giáo viên, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi” (khoản 2 Điều 6 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC). Khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch số 06/2018 đã hướng dẫn:“Người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi là người có thâm niên công tác trong lĩnh vực tư pháp; quản lý, đào tạo, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục người dưới 18 tuổi; người được đào tạo về giáo dục thanh, thiếu niên, nhi đồng hoặc những người khác có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi”.
2.2. Việc xác định tuổi của người bị hại dưới 18 tuổi
Để có căn cứ áp dụng đúng chính sách về trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội thì việc xác định tuổi của người bị hại dưới 18 tuổi là một yêu cầu bắt buộc trong giai đoạn nghiên cứu hồ sơ vụ án.
Theo Điều 417 BLTTHS năm 2015 và Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018, việc xác định tuổi của người bị hại dưới 18 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau:
a) Giấy chứng sinh;
b) Giấy khai sinh;
c) Chứng minh nhân dân;
d) Thẻ căn cước công dân;
e) Sổ hộ khẩu;
f) Hộ chiếu.
Trường hợp các giấy tờ, tài liệu này có mâu thuẫn, không rõ ràng hoặc không có giấy tờ, tài liệu này thì cơ quan có thẩm quyền THTT, người có thẩm quyền THTT phải phối hợp với gia đình, người đại diện người thân thích, nhà trường, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc tổ chức, cá nhân khác có liên quan nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động, sinh hoạt trong việc hỏi, lấy lời khai, xác minh làm rõ mâu thuẫn hoặc tìm các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị chứng minh về tuổi của người đó.
Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp nhưng chỉ xác định được khoảng thời gian tháng, quý, nửa đầu hoặc nửa cuối của năm hoặc năm sinh thì tùy từng trường hợp cụ thể cần căn cứ khoản 2 Điều 417 BLTTHS năm 2015 để xác định tuổi của họ: Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh; Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh; Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh; Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.
Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi (khoản 3 Điều 417 BLTTHS năm 2015).
Trường hợp kết quả giám định tuổi chỉ xác định được khoảng độ tuổi của người bị hại thì cơ quan có thẩm quyền THTT, người có thẩm quyền THTT lấy tuổi thấp nhất trong khoảng độ tuổi đã xác định được để xác định tuổi của họ. Ví dụ: Kết luận giám định A có độ tuổi trong khoảng từ 13 tuổi 06 tháng đến 14 tuổi 02 tháng thì xác định tuổi của A là 13 tuổi 06 tháng.
2.3. Việc đảm bảo thực hiện các nguyên tắc tiến hành TTHS đối với người dưới 18 tuổi
Trách nhiệm của CQTHTT nói chung và cơ quan Tòa án nói riêng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử VAHS có người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi là phải bảo đảm thực hiện các nguyên tắc tiến hành TTHS đối với người dưới 18 tuổi.
Các nguyên tắc THTT đối với người dưới 18 tuổi được quy định trong BLTTHS năm 2015 là những nội dung hoàn toàn mới mà định hướng của nó xuyên suốt toàn bộ các quy định của pháp luật TTHS đối với người dưới 18 tuổi. Bằng việc quy định các nguyên tắc này, BLTTHS đã góp phần hoàn thiện cơ chế tố tụng để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn xử lý các vụ án có người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng, đồng thời bảo đảm sự tương thích với Công ước quốc tế về quyền trẻ em, đồng bộ với Luật Trẻ em. Các nguyên tắc THTT đối với người dưới 18 tuổi được quy định tại Điều 414 chương XXXII, Phần thứ bảy: Thủ tục đặc biệt của BLTTHS năm 2015. Điều luật này đã quy định đầy đủ, toàn diện 07 nguyên tắc mà cơ quan, người THTT phải quán triệt,tôn trọng và nghiêm túc thực hiện khi THTT đối với những vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi, trong đó, có 06 nguyên tắc cần được bảo đảm áp dụng trong xét xử các VAHS có người dưới 18 tuổi là người bị hại. Các nguyên tắc đó gồm:
Một là, bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi.
Khi THTT, cơ quan Tòa án nói riêng và các cơ quan tố tụng nói chung phải tuân thủ các quy định về thủ tục đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi sao cho bảo đảm các quyền và lợi ích tốt nhất cho họ. Các quy định về thủ tục tố tụng cần bảo đảm sự thân thiện, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi của người dưới 18 tuổi. Như vậy, khi áp dụng quy định của pháp luật về các thủ tục TTHS, ngoài việc cần bảo đảm thực thi công lý, thì việc xử lý người phạm tội của các cơ quan có thẩm quyền THTT phải chú trọng đến việc bảo vệ lợi ích tốt nhất cho đối tượng bị xâm hại là người dưới 18 tuổi, người phạm tội phải bị nghiêm trị để mang lại công lý, niềm tin cho người dưới 18 tuổi.
Hai là, bảo đảm giữ bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi.
Nguyên tắc này được dựa trên quy định của chuẩn mực quốc tế: “Mọi điều riêng tư của trẻ em phải được hoàn toàn tôn trọng trong mọi giai đoạn tố tụng” và “Quyền riêng tư của người chưa thành niên phải được tôn trọng trong tất cả các giai đoạn tố tụng, nhằm tránh những tổn hại gây ra do sự công khai hóa quá mức hay do sự quy chụp”1. Thực tiễn cho thấy, việc giữ bí mật cá nhân cho người dưới 18 tuổi là người bị hại rất quan trọng, bởi họ đang ở độ tuổi phát triển, cần được bảo vệ nhân cách và phẩm giá cũng như sự an toàn và phúc lợi của họ. Việc để lộ thông tin về người bị hại là người dưới 18 tuổi ra công luận có thể gây ra những hậu quả hết sức nặng nề.
Quyền riêng tư là một trong những quyền con người, quyền công dân cơ bản được pháp luật công nhận, bảo vệ. Quyền riêng tư đối với trẻ em lại càng được đặc biệt chú trọng vì trẻ em thuộc nhóm yếu thế, chưa phát triển đầy đủ về nhận thức, thể chất để có thể tự bảo vệ mình trước các hành vi tác động, xâm hại đến mình.
Điều 21 Luật Trẻ em năm 2016 đã quy định: “1. Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. 2.Trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư”. Để đảm bảo thực thi các chính sách về trẻ em, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 9/5/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em. Trong đó, Điều 33 của Nghị định giải thích rõ thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình; người chăm sóc trẻ em; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán…Do đó, bảo đảm giữ bí mật cho người dưới 18 tuổi trong các VAHS không những là trách nhiệm của người có thẩm quyền THTT, mà còn là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức khi tham gia THTT, trong đó có cơ quan Tòa án.
Ba là, bảo đảm quyền tham gia tố tụng của người đại diện của người dưới 18 tuổi, nhà trường, Đoàn Thanh niên, người có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý, xã hội, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt.
Việc tham gia vào quá trình giải quyết vụ án của các cá nhân, tổ chức xã hội…sẽ bảo đảm cho người dưới 18 tuổi được hỗ trợ về mặt tinh thần (có thể cả về pháp lý), ổn định về tâm sinh lý cho người dưới 18 tuổi, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời có thể hạn chế được sự lạm quyền hoặc vi phạm pháp luật của những người THTT.
Bốn là, tôn trọng quyền được tham gia, trình bày ý kiến của người dưới 18 tuổi.
Nguyên tắc này được dựa trên quy tắc tối thiểu của Liên Hiệp Quốc. Đó là: “Các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về mọi vấn đề tác động đến trẻ em và những quan điểm của trẻ em phải được coi trọng một cách thích đáng…”. Với mục đích đó, người dưới 18 tuổi phải được đặc biệt trao cơ hội để nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng nào có liên quan đến họ, trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp. Và mặc dù người dưới 18 tuổi đã có người bào chữa và người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho họ nhưng khi THTT, những người THTT, cụ thể ở đây là Hội đồng xét xử cần phải tôn trọng những ý kiến của họ về các thủ tục tố tụng.
Năm là, bảo đảm quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi.
Quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý là những quyền đặc biệt của người dưới 18 tuổi. Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý, sự nhận thức của người dưới 18 tuổi về mặt pháp luật còn hạn chế, người dưới 18 tuổi có quyền nhờ luật sư, người đại diện, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định tại Điều 84 BLTTHS năm 2015. Do vậy, Tòa án (Hội đồng xét xử) cần phải có trách nhiệm trong việc đảm bảo quyền bào chữa cho người dưới 18 tuổi là người bị hại. Tôn trọng và bảo đảm quyền bào chữa có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng xét xử và việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
Sáu là, bảo đảm giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi
Việc giải quyết các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi là người bị hại cần được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, điều này vừa nhằm mục đích bảo đảm các quyền lợi tốt nhất cho người dưới 18 tuổi, đồng thời bảo đảm bảo vệ bí mật đời tư của người bị hại là người dưới 18 tuổi bị các hành vi phạm tội xâm hại.
2.4. Quy định về việc tham gia tố tụng của luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại làngười dưới 18 tuổi
Quyền được bào chữa, được trợ giúp pháp lý của người dưới 18 tuổi là yêu cầu bắt buộc. Quyền này được quy định trong Hiến pháp, Luật Trẻ em, BLTTHS, Luật Trợ giúp pháp lý…Cụ thể hóa quy định bảo đảm việc tham gia tố tụng của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi, Điều 10Thông tư liên tịch số 06/2018 đã quy định: “Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo cho người bị hại dưới 18 tuổi, người đại diện hoặc người thân thích của họ về việc mời người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ khi tham gia tố tụng”; trường hợp những người này không mời thì tùy trường hợp CQTHTT giải quyết như sau: Chỉ định người bào chữa nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 76 BLTTHS năm 2015; Yêu cầu Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước cử người thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 của Thông tư này; Yêu cầu cơ quan, tổ chức có người bị hại là thành viên cử người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
2.5. Quy định về việc tham gia tố tụng của đại diện, nhà trường và các tổ chức chính trị - xã hội
Việc tham gia của người đại diện, nhà trường và tổ chức của người dưới 18 tuổi là rất quan trọng để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi, cũng như trợ giúp cho người dưới 18 tuổi về tâm lý, đồng thời cũng có thể giám sát được hoạt động của những người có thẩm quyền THTT. Người đại diện nói chung và người đại diện của người dưới 18 tuổi nói riêng là người tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 20 Điều 55 BLTTHS năm 2015. Đây là điểm mới của BLTTHS năm 2015, vì trước đây BLTTHS năm 2003 không quy định người đại diện là người tham gia tố tụng. Khoản 1 Điều 420 BLTTHS năm 2015 quy định: “Người đại diện của người dưới 18 tuổi là thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn Thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của Tòa án”. BLTTHS năm 2015 không quy định cụ thể về người đại diện của người dưới 18 tuổi gồm có những ai. Do đó, khoản 1 Điều 3Thông tư liên tịch số 06/2018 đã hướng dẫn như sau: “Người đại diện của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi là người từđủ 18 tuổi trở lên, cóđủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự và cóđủđiều kiện làm người đại diện theo quy định tại các điều 134, 135 và 136 Bộ luật Dân sự.
Người đại diện của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi được xác định theo thứ tự sau đây:
a) Cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi;
b) Người giám hộ;
c) Người do Tòa án chỉđịnh”.
Người giám hộ của người dưới 18 tuổi là người giám hộ đương nhiên hoặc người được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người dưới 8 tuổi cư trú hoặc Tòa án chỉ định theo quy định tại các Điều 46, 47, 48 và 54 Mục 4 Chương III của Bộ luật Dân sự2.
Người đại diện tham gia phiên tòa được quy định bao gồm: Người đại diện của người dưới 18 tuổi; Đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người dưới 18 tuổi lao động, sinh hoạt. Trường hợp vắng vì lý do bất khả kháng, trở ngại khách quan lần thứ nhất, lần thứ hai thì Tòa án phải hoãn phiên tòa. Trường hợp những người này vắng mặt lần thứ hai không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan nhưng để đảm bảo lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi thì Tòa án cũng có thể hoãn phiên tòa3. Những người này phải có mặt tại phiên tòa theo quyết định của Tòa án.
2.6.Cách thức tổ chức phiên tòa xét xửVAHS có người bị hại làngười dưới 18 tuổi
- Về thẩm quyền:Trong giai đoạn xét xử, thực hiện nguyên tắc của BLTTHS: bảo đảm xét xử thân thiện, TAND tối cao đã ban hành Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC quy định về phòng xử án và Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 quy định chi tiết việc xét xử VAHS có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa Gia đình và người chưa thành niên. Theo các quy định này, thẩm quyền xét xử các VAHS có bị hại là người dưới 18 tuổi được xác định như sau:
+ Đối với Tòa án đã thành lập Tòa GĐ&NCTN, các “Vụ án hình sự mà bị cáo là người đủ 18 tuổi trở lên nhưng người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác”4 thì xét xử tại Phòng xử án hình sự của Tòa GĐ&NCTN.
+ Đối với Tòa án chưa thành lập Tòa GĐ&NCTN, thì khi xét xử các VAHS nói trên “phòng xử án phải được bố trí thân thiện, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi”5.
+ Đối với các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi theo các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 BLHS được hướng dẫn theo Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao: Xét xử tại Phòng xét xử thân thiện.
- Cách bố trí phòng xử án:
+ Phòng xét xử của Tòa GĐ&NCTN: Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC quy định về Phòng xét xử của Tòa GĐ&NCTN khác hoàn toàn so với các phòng xét xử khác. Trong phòng xử án, vị trí của những người THTT, người tham gia tố tụng, người tham dự phiên tòa, phiên họp trong phòng xử án được “bố trí trên cùng một mặt phẳng, sắp xếp theo hình thức bàn tròn; tường trong phòng xử án có màu xanh”. Bàn, ghế trong phòng xử án được thiết kế theo kiểu dáng bàn, ghế văn phòng. Người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng tại phiên tòa được ngồi cạnh người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Việc bố trí phòng xử án theo không gian mới như trên sẽ tác động tâm lý tốt tới người dưới 18 tuổi, không làm họ hoảng sợ. Việc tổ chức phiên tòa theo hình thức này sẽ tốt hơn việc xét xử vụ án tại hội trường thông thường.
+ Phòng xét xử bố trí thân thiện: Đối với các Tòa án chưa có Phòng xét xử thân thiện thì khi xét xử các vụ án quy định tại khoản 1 Điều 5 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC, phòng xử án phải được bố trí thân thiện, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi.
- Về trang phục: Khi xét xử những vụ án có bị hại dưới 18 tuổi tham gia tố tụng được thực hiện theo Quyết định số 1738/QĐ-TANDTC ngày 23/11/2017 Ban hành quy chế cấp phát, sử dụng quản lý trang phục, giấy chứng minh Thẩm phán, giấy chứng nhận chức danh tư pháp, giấy chứng nhận Tòa án nhân dân, trang phục khi xét xử các VAHS có bị hại là người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng thì Thẩm phán mặc trang phục làm việc hành chính của TAND: áo trắng, quần tối màu (không mặc áo choàng)6.
- Quy định về xét xử các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi theo các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 BLHS năm 2015:
+Đối với những vụ án có người bị hại dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán thì Tòa án phải xét xử kín; đối với những vụ án khác có yêu cầu của người dưới 18 tuổi, người đại diện của họ hoặc để giữ bí mật đời tư, bảo vệ người dưới 18 tuổi thì Tòa án cũng có thể xử kín nhưng phải tuyên án công khai. Khi tuyên án, Hội đồng xét xử chỉ đọc phần quyết định trong bản án.
+ Tòa án cần hạn chế triệu tập bị hại đến phiên tòa nếu vẫn giải quyết được vụ án bằng việc áp dụng các biện pháp thay thế khác (ví dụ: sử dụng lời khai của họ ở giai đoạn điều tra, truy tố; mời họ đến Tòa án hoặc địa điểm hợp pháp khác để lấy lời khai trước bằng văn bản, bằng ghi âm, ghi hình có âm thanh…);
+ Trường hợp phải triệu tập bị hại đến phiên tòa, Tòa án cần tạo điều kiện để họ làm quen, tiếp xúc với môi trường Tòa án, với quy trình và thủ tục xét xử; bố trí cho họ ngồi ở phòng cách ly và sử dụng các thiết bị điện tử (ví dụ: micro, loa, ti vi, camera…) để không làm ảnh hưởng đến tâm lý của họ khi họ khai báo, tham gia tố tụng tại phiên tòa; trường hợp không bố trí được phòng cách ly thì để họ ngồi ở phòng xử án nhưng phải có màn che ngăn cách với khu vực của bị cáo và khoảng cách giữa Hội đồng xét xử với người bị hại không quá 03 mét. Trong các vụ án xâm hại tình dục đối với trẻ em, Tòa án cần bố trí khu vực riêng cho người bị hại, tránh để bị tiếp xúc với bị cáo làm ảnh hưởng đến tâm lý của bị hại trong quá trình xét xử và về sau, đồng thời cũng đảm bảo lời khai khách quan của các bị hại;
+ Câu hỏi đối với bị hại là người dưới 18 tuổi phải phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển, trình độ văn hóa, hiểu biết của họ. Câu hỏi cần ngắn gọn, rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu; không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc; chỉ đặt câu hỏi làm rõ tình tiết vụ án; không đặt câu hỏi chỉ để tranh luận. Câu hỏi đối với bị hại dưới 10 tuổi không quá 10 từ và thời gian hỏi không liên tục quá 01 giờ. Tránh việc yêu cầu bị hại tường thuật lại chi tiết quá trình phạm tội;
+ Sử dụng sơ đồ hoặc mô hình cơ thể có đánh số thứ tự các bộ phận để người bị hại là người dưới 18 tuổi xác định các bộ phận bị xâm hại. Không được xác định bộ phận xâm hại bằng cách để bị hại chỉ trực tiếp vào bộ phận cơ thể của mình hoặc của người khác;
+ Khi bị cáo đề nghị được hỏi bị hại là người dưới 18 tuổi, thì phải chuyển câu hỏi cho người bào chữa hoặc Hội đồng xét xử hỏi. Không được để bị hại và bị cáo đối chất tại phiên tòa;
+ Tòa án phải xem xét và đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ phù hợp theo quy định tại Chương XXXIV BLTTHS khi bị hại, người thân thích của bị hại yêu cầu hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kiến nghị bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại và người thân thích của họ.
Tại Việt Nam, hệ thống pháp luật nói chung và chính sách pháp luật hình sự đã cơ bản hoàn thiện, các quyền con người được tôn trọng, bảo vệ và đặc biệt là các quyền trẻ em. Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 đã có sự điều chỉnh mạnh mẽ về tư pháp người dưới 18 tuổi nói chung; trong đó cùng với việc tiếp tục bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi với những quy định hết sức cụ thể. Mặc dù vậy, chính sách hình sự mới chỉ tập trung điều chỉnh các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội, còn trong trường hợp người dưới 18 tuổi là người bị xâm hại thì vẫn còn thiếu những quy định chuyên biệt, cần tiếp tục được các nhà làm luật nghiên cứu, bổ sung./.
BẾ THỊ HUYỀN THƯƠNG
*1Liên Hiệp Quốc năm 1989, Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, điểm VII khoản 2 Điều 40 và Liên Hiệp Quốc 1985, Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hiệp Quốc về hoạt động Tư pháp đối với người chưa thành niên.
*2Người giám hộ đương nhiên của người bị hại dưới 18 tuổi: theo quy định tại điểm a,b Điều 47 BLDS năm 2015 thì trường hợp người chưa thành niênkhông còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha mẹ; người chưa thành niêncó cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha,mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ thì có người giám hộ đương nhiên, Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niênđược xác định theo quy định tại Điều 52 BLDS năm 2015. Cụ thể là việc xác định người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niêntheo thứ tự sau đây:
- Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ;
- Trường hợp không có người giám hộ quy định tại khoản 1 Điều này thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ;
- Trường hợp không có người giám hộ như hai trường hợp trên thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.
Ngoài ra, người giám hộ của người bị hại chưa thành niên được Ủy ban nhân dân cấp xã cử được thực hiện theo Điều 54 của BLDS năm 2015 hoặc người giám hộ, người đại diện do Tòa án chỉ định khi có tranh chấp giữa những người giám hộ quy định tại Điều 52, 53 của BLDS; tranh chấp về việc cử người giám hộ theo Điều 54 của BLDS.
Về quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho người bị hại là người dưới 18 tuổitham gia tố tụng theo quyết định của Tòa án được quy định trong nhiều điều khoản khác nhau của BLTTHS năm 2015: Điều 331, 338, 418, 420, 421, 422, 423, 469, 470.
*3Điều 8, Điều 9 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC.
*4Khoản 4 Điều 4 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC.
*5Khoản 2 Điều 5 Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC.
*6Điều 7 Thông tư số 01/2017/TT-CA ngày 28/7/2017.